Thứ Năm, 24 tháng 3, 2016

ĐÂY MỚI LÀ “ĐỒI THÔNG HAI MỘ


(Tiếp theo bài "Chuyện đồi thông hai mộ")

Cuối những năm 50 của thế kỷ trước, giới trẻ Sài gòn xôn xao về câu chuyện tình chung thủy của chàng chiến binh ĐINH LĂNG và nàng thôn nữ QUÁCH MỴ DUNG. Chuyện tình ấy là chuyện kể trong tập thơ của tác giả TÙNG GIANG (tên thực là Vũ Đình Trung) được xuất bản tại Hà nội năm 1949. Tập truyện thơ có nhan đề “ĐỒI THÔNG HAI MỘ”.



Theo tác giả, ông sáng tác truyện thơ này dựa theo một truyện của người dân tộc Mường ở tỉnh Hòa bình.

Nhân một lần tản cư lên Hòa bình vào năm 1945, ông tình cờ phát hiện hai ngôi mộ trên một ngọn đồi thông. Hai ngôi mộ bằng đá trắng có bia ghi bằng chữ Hán. Một tên Đinh Lăng và một tên Quách Mỵ Dung.

Tiếp tục tìm hiểu, ông được một vị Trưởng làng người Mường cho xem quyển truyện viết bằng tiếng Mường tựa đề “Đồi thông hai mộ” của tác giả CHẾ QUANG TUYẾN. Theo vị Trưởng làng đây là một câu chuyện có thực. Vì tiếc thương hai nhân vật tài sắc “ái quốc chung tình , kiên trinh thủ tín” mà dân làng đã chôn hai người cạnh nhau và lập môt miếu thờ, nhang khói không dứt.

Từ cuốn truyện tiếng Mường ấy, ông đã sáng tác tập thơ “Đồi thông hai mộ” bằng tiếng Việt theo thể thơ Song thất lục bát.

Từ năm 1954, truyện thơ “Đồi thông hai mộ” đã theo dòng người di cư vào miền Nam và được nhiều thanh niên thời ấy yêu thích, truyền tay đọc và chép lại.

Như vậy “Đồi thông hai mộ” ở một nơi cách tỉnh lỵ Hòa bình xưa khoảng 30 km theo tác giả Tùng Giang.
Biết đâu mai mốt đây sẽ có tranh chấp về thương hiệu du lịch mang tên “Đồi thông hai mộ” nhỉ?

Và đây là đoạn mở đầu của truyện thơ:

Anh Đinh Lăng giờ đây đâu nhỉ
Anh của em yêu quý nhất đời
Anh đi mù mịt xa khơi
Phượng hoàng tung cánh phương trời mãi bay

Nỗi niềm em anh hay chăng nhỉ
Vẫn chờ anh vắng vẻ phòng không
Xa trông mây nước mịt mùng
Lệ sầu thấm ố chăn hồng đêm đông

Trí ngang dọc non sông nghĩa vụ
Nợ cao dầy vũ trụ tang bồng
Tuy chưa pháo nổ rượu nồng
Tuy chưa chăn gối vợ chồng như ai

Nhưng một buổi sớm mai em nhớ
Một sớm thu mưa gió âm thầm
Đồi thông gắn bó sắt cầm
Đồi thông tiễn biệt lệ đầm áo xanh

Ngồi bên nhau em anh kết nguyện
Nghĩa trăm năm giữ vẹn lời thề
Chờ anh cho đến ngày về
Anh chờ em đợi không hề đổi thay

Mười bảy xuân dù hay dù dở
Trông vào anh muôn thuở cậy nhờ
Xa anh em chẳng còn ngờ
Xa anh em chẳng hững hờ đơn sai.
……….
TRỌN BỘ TRUYỆN THƠ XEM TẠI ĐÂY:
(Lưu ý thơ chép sai lỗi chính tả rất nhiều)

CÓ THỂ TÌM MUA SÁCH THƠ Ở ĐÂY:
http://sachxua.net/forum/index.php?topic=20415.5;wap2
-------------------------------------------------------------

Ông Đào Văn Bình, nhà văn người Việt, đang sống tại nước Mỹ, đã viết rằng:
“.....
Thói quen/cách ăn uống trở thành văn hóa ẩm thực, giống như mấy ông Ba Tàu ở Chợ Lớn nói chuyện với nhau năm xưa. Các “món ăn miền Bắc” trở thành “Ẩm thực miền Bắc”.
Người ta thích là thích các “món ăn” miền Bắc chứ miền Bắc có đồ uống (ẩm) gì ra hồn đâu mà thích? 

XEM TIẾP: